Mái ấm gia đình là điểm tựa, là cái nôi
nuôi dưỡng và dạy dỗ con người. Nhà luôn là nơi yên bình và cho ta những tình
cảm chân thật nhất. Chỉ khi ở nhà ta mới cảm thấy yên bình, bao lo âu mỏi mệt
bỗng chốc tan biến. Gia đình luôn là niềm tự hào và đáng trân trọng trong tim
mỗi người. Thật vậy, gia đình với con người rất quý giá và đáng trân trọng,
nhưng hiện nay ở một số gia đình lại xuất hiện hành vi bạo lực đáng thương tâm.
Đây là một trong những vấn nạn mà cả xã hội nhức nhối và cần có biện pháp để
khắc phục.
Như
chúng ta đã biết bạo lực là hành vi xấu gây tổn thương đến người khác bằng hành
động hoặc lời nói. Bạo lực gia đình là ngược đãi, đánh đập, gây áp lực khiến
những thành viên khác trong gia đình bị tổn thương về mặt tâm lý và sức khỏe.
Không chỉ thế bạo lực gia đình còn được hiểu là sự xúc phạm, ép buộc và cưỡng
chế những thành viên khác trong gia đình. Bạo lực gia đình khiến hạnh phúc tan
vỡ, tổn thương về mặt tâm lý, tình cảm khiến cho những đứa trẻ trong gia đình
ấy có thể bị ảnh hưởng xu hướng bạo lực từ gia đình.
Người
ta thường nói hạnh phúc phải được gây dựng từ hai phía, nhưng trong tình huống
này thì người chống kia hoàn toàn vô dụng, tuyệt vọng chứ, đau đớn chứ, nhiều
lúc muốn từ bỏ chứ thế nhưng thân là người vợ còn phải nghĩ đến cho con cái của
mình nữa, còn phải lo cho mẹ già, cái xã hội bây giờ có biết bao nhiêu điều
tiếng khiến cuộc đời người phụ nữ thêm khổ nhọc và họ chẳng thể quay mặt làm
ngơ. Vậy là người vợ cứ sống nhưng trái tim đã chết, họ chẳng biết đến cái thứ
gọi là hạnh phúc gia đình, bất mãn, mệt mỏi khiến họ lên tiếng, họ muốn chồng
mình thay đổi, thế nhưng hắn ta đi uống rượu say về rồi không lời lẽ gì mà cứ
lôi vợ ra mà đánh, hắn đày đọa vợ chỉ vì không đưa hắn đủ tiền uống rượu, hắn
nhạo báng, phỉ nhổ người vợ duy nhất của mình vì ghen tị với vợ nhà hàng xóm.
Những kẻ điên thì có bao giờ tự nhận mình là điên, thân là chồng, là đàn ông
sức dài vai rộng trong nhà đáng lẽ phải chăm lo và kiếm tiền nuôi gia đình thế
nhưng lại sa đọa vào tệ nạn để rồi tự tay hủy hoại đi hạnh phúc gia đình mình.
Nhắc
đến bạo lực gia đình chúng ta thường nghĩ đến chồng đánh vợ, con đánh cha mẹ
thế nhưng dạo gần đây nổi cộm lên vấn nạn vợ giết chồng, chống giết vợ. Cuộc
sống ngày nay dường như đã bị đảo điên một cách nghiêm trọng, mới hồi nào chúng
ta còn đau đớn đầy thương xót cho thân phận người phụ nữ xưa bị chà đạp không
có tiếng nói thì bây giờ chị em phụ nữ đã vùng dậy và " đánh trả" một
cách mạnh mẽ. Vậy là khi người phụ nữ lấy lại được tiếng nói của mình thì một
số người lại giở thói vũ phu, theo chân đáng nam nhi tự chà đạp hạnh phúc của
gia đình mình. Chúng ta đều là con người và không có chuyện ai phải nghe theo
ai, hạnh phúc trên đời đâu thể mua được bằng tiền, hạnh phúc cũng chẳng thể
cưỡng ép hay dùng hành động cưỡng chế vậy nên dù là nam hay nữ, dù đúng hay sai
thì vẫn hay tôn trọng và thông cảm cho nhau, rồi mọi chuyện sẽ qua đi và đừng
để vài phút bốc đồng mà làm tổn thương đến người mà mình yêu thương và gắn bó
hết đời.
Bạo
lực gia đình là một hành vi vô cùng vô cùng xấu xa, chỉ có những hiểu biết
thiển cận mới chọn cánh dùng đến vũ lực để giải quyết vấn đề. Chúng ta đều là
con người, chúng ta đều có suy nghĩ và có thể tự hiểu được, thậm chí chúng ta
còn là gia đình máu mủ, chúng ta đều yêu thương và giúp đỡ nhau vậy nên đừng vì
vài phút nóng giận mà gây ra những vụ bạo lực không đáng có. Là con người thì
phải biết lắng nghe và quan sát, chỉ có như thế thì hạnh phúc mới dài lâu, cuộc
sống hôn nhân mới êm ấm.
Ngày 14 tháng 11 năm 2022, tại kỳ họp thứ
4, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XV đã thông
qua, một lần nữa lên án và có chế taì cụ thể trong vấn đề bạo lực gia
đình . Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2022 gồm 6 chương, 56 điều, quy định về phòng
ngừa, ngăn chặn, bảo vệ, hỗ trợ, xử lý vi phạm trong phòng, chống bạo lực gia
đình; điều kiện bảo đảm phòng, chống bạo lực gia đình; quản lý Nhà nước và
trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân trong phòng, chống bạo lực
gia đình. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2023.
Dưới
đây là 10 điểm mới đáng chú ý nhất của Luật Luật Phòng, chống bạo lực gia
đình năm 2022 cụ thể như sau:
1. Bổ sung thêm
nhiều định nghĩa
Một trong những điểm mới của Luật Phòng chống bạo lực gia
đình là đã bổ sung Điều 2 giải thích từ ngữ được sử dụng trong Luật này. Cụ thể
gồm định nghĩa của cấm tiếp xúc; nơi tạm lánh; giáo dục hỗ trợ chuyển đổi hành
vi bạo lực gia đình.
Luật Phòng
chống bạo lực gia đình hiện hành không có Điều, khoản giải thích từ ngữ được sử
dụng trong Luật mà chỉ nêu định nghĩa về bạo lực gia đình tại khoản 2 Điều 1 về
phạm vi điều chỉnh. Riêng định nghĩa bạo lực gia đình thì Luật năm 2022 đã bổ
sung thêm hậu quả “có khả năng gây tổn hại về tình dục” là biểu hiện của hành
vi bạo lực gia đình, cụ thể:
1. Bạo lực gia
đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây
tổn hại về thể chất, tinh thần, tình dục, kinh tế đối với thành viên khác trong
gia đình.
Trong khi đó, khoản 2 Điều 1 Luật Hôn nhân và Gia đình năm
2007 chỉ định nghĩa:
2. Bạo lực gia
đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây
tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình.
2. Có 16 hành vi bạo
lực gia đình từ 01/7/2023
Hiện nay, Điều 2 Luật Phòng chống bạo lực gia đình đang có
hiệu lực quy định, có 09 hành vi bị xem là bạo lực gia đình gồm:
Điều 2. Các hành vi
bạo lực gia đình
1. Các hành vi bạo lực
gia đình bao gồm:
a) Hành
hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng;
b) Lăng mạ hoặc
hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;
c) Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên
về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng;
d) Ngăn cản
việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu;
giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau;
đ) Cưỡng ép
quan hệ tình dục;
e) Cưỡng ép tảo hôn;
cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ;
g) Chiếm đoạt, huỷ
hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành
viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình;
h) Cưỡng ép
thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ;
kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về
tài chính;
i) Có hành vi trái
pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở.
Từ 01/7/2023 - thời điểm Luật Phòng chống bạo lực gia đình 2022 có
hiệu lực, Luật mới đã nâng các hành vi bị coi là bạo lực gia đình lên 16 hành
vi và sửa đổi một số hành vi, cụ thể gồm:
- Bổ sung mới:
+ Cưỡng ép chứng kiến bạo lực với người, vật nhằm gây áp lực
thường xuyên về tâm lý.
+ Bỏ mặc, không quan tâm; không nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ
em, phụ nữ mang thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người cao tuổi,
người khuyết tật, người không có khả năng tự chăm sóc (là thành viên gia đình);
không giáo dục thành viên gia đình là trẻ em.
+ Kỳ thị, phân biệt đối xử về giới, giới tính, hình thể, năng lực
của thành viên gia đình;
+ Tiết lộ/phát tán thông tin về đời sống riêng tư, bí mật
cá nhân và gia đình của thành viên gia đình nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm.
+ Cưỡng ép trình diễn khiêu dâm; cưỡng ép nghe âm
thanh, xem hình ảnh, đọc nội dung khiêu dâm, kích thích bạo lực.
+ Cưỡng ép mang thai, lựa chọn giới tính thai nhi, phá thai;
+ Cô lập, giam cầm thành viên gia đình;
+ Cưỡng ép thành viên gia đình học tập.
- Sửa đổi: Cưỡng ép thực hiện hành vi quan hệ tình dục trái
ý muốn của vợ hoặc chồng trong khi trước chỉ quy định “Cưỡng ép quan hệ tình
dục”.
Như vậy, so với quy định hiện hành chỉ có 09 hành vi bạo
lực gia đình, Luật mới đã tăng lên 16 hành vi trong đó có nhiều hành vi mà
trước nay nhiều người chưa nghĩ tới đó là bạo lực gia đình và không lường trước
được hậu quả có thể xảy ra.
3.
Mở rộng đối tượng bạo lực gia đình ngoài hôn nhân
Nhiều người nghĩ rằng, bạo lực gia đình chỉ áp dụng với các thành
viên gia đình hiện tại của nhau hoặc giữa những người đang có quan hệ hôn nhân
và gia đình mà không áp dụng với những người đã ly hôn, chung sống với nhau như
vợ chồng, người đã từng là cha mẹ nuôi, con nuôi…
Tuy nhiên, đây là mối quan hệ khá đặc thù, dễ có tiếp xúc
trong cuộc sống, thậm chí còn là các mối quan hệ thường xuyên nảy sinh xung
đột, bạo lực.
Và thực tế cho thấy, hiện nay có rất nhiều vụ bạo lực liên
quan đến các thành viên gia đình của người đã ly hôn, người sống chung với nhau
như vợ chồng; thậm chí là giữa thành viên của người đã ly hôn hoặc sống chung
với nhau như vợ chồng.
Do đó, khoản 2 Điều 3 Luật Phòng chống bạo lực gia đình đã
bổ sung thêm một số đối tượng cũng áp dụng các hành vi bị coi là bạo lực gia
đình gồm:
2. Hành vi quy
định tại khoản 1 Điều này được thực hiện giữa người đã ly hôn; người chung sống
như vợ chồng; người là cha, mẹ, con riêng, anh, chị, em của người đã ly hôn,
của người chung sống như vợ chồng; người đã từng có quan hệ cha mẹ nuôi và con
nuôi với nhau cũng được xác định là hành vi bạo lực gia đình theo quy định của
Chính phủ.
Hiện nay, quy định này chỉ áp dụng với “thành viên gia
đình của vợ, chồng đã ly hôn hoặc nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống
với nhau như vợ chồng”.
4. Đặt người bị bạo lực gia đình là trung
tâm phòng, chống bạo lực gia đình.
Đây là nguyên
tắc phòng, chống bạo lực gia đình được đặc biệt nhấn mạnh tại khoản 1 Điều 4
Luật Phòng chống bạo lực gia đình năm 2022:
Điều 4.
Nguyên tắc phòng, chống bạo lực gia đình
1. Phòng ngừa là
chính, lấy người bị bạo lực gia đình là trung tâm.
Người bị bạo lực gia đình là đối tượng chịu
nhiều hậu quả trực tiếp cả về thể chất và tâm lý, là đối tượng cần được bảo vệ
đặc biệt khi họ là những người yếu thế trong xã hội như phụ nữ và trẻ em.
Do đó, khi ban hành Luật Phòng, chống bạo lực gia đình,
người bị bạo lực gia đình phải là trung tâm của các biện pháp phòng chống bạo
lực. Đồng thời, không chỉ trẻ em, người cao tuổi, người tàn tật và phụ nữ là
các đối tượng được ưu tiên bảo vệ mà luật mới còn bổ sung thêm một số đối tượng
nữa:
2. Tôn trọng, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người có liên quan; bảo đảm lợi ích tốt nhất của
trẻ em; ưu tiên bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị bạo lực gia đình
là phụ nữ mang thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người cao tuổi,
người khuyết tật, người không có khả năng tự chăm sóc; thực hiện bình đẳng giới.
Như vậy, hiện nay, cả trẻ em, phụ nữ, người khuyết tật,
người cao tuổi đều là đối tượng được ưu tiên bảo vệ quyền lợi khi gặp phải hành
vi bạo lực gia đình.
Từ 01/7/2023, Luật mới nhấn mạnh “bảo đảm lợi ích
tốt nhất của trẻ em” và bổ sung, quy định rõ thêm các đối tượng ưu tiên bảo vệ quyền,
lợi ích gồm “phụ nữ mang thai, đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi (không chỉ là
phụ nữ chung chung như hiện nay), người cao tuổi, người khuyết tật, người không
có khả năng tự chăm sóc…
5. Tháng 6 là tháng hành động quốc gia
phòng, chống bạo lực gia đình
Khi đề cập đến điểm mới của Luật Phòng chống bạo lực gia
đình không thể không nói đến nội dung này. Quy định này mới được bổ sung tại
Điều 7 Luật Phòng chống bạo lực gia đình năm 2022. Theo đó, tháng 6 hàng năm
được chọn để tổ chức các hoạt động nhằm thúc đẩy việc phòng, chống bạo lực gia
đình và tôn vinh giá trị gia đình.
Các hoạt động để tổ chức Tháng hành động quốc gia phòng,
chống bạo lực gia đình sẽ do Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch chủ trì, chỉ đạo,
hướng dẫn.
6. Bổ sung
nhiều quyền của người bị bạo lực gia đình
Hiện nay, Điều 5 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 2007
chỉ quy định 05 quyền của nạn nhân bạo lực gia đình:
1. Nạn nhân bạo
lực gia đình có các quyền sau đây:
a) Yêu cầu cơ
quan, tổ chức, người có thẩm quyền bảo vệ sức khỏe, tính mạng, nhân phẩm, quyền
và lợi ích hợp pháp khác của mình;
b) Yêu cầu cơ quan,
người có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn, bảo vệ, cấm tiếp xúc theo quy
định của Luật này;
c) Được cung
cấp dịch vụ y tế, tư vấn tâm lý, pháp luật;
d) Được bố trí nơi
tạm lánh, được giữ bí mật về nơi tạm lánh và thông tin khác theo quy định của
Luật này;
đ) Các quyền khác
theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, từ 01/7/2023, Điều 9 Luật năm 2022 có sửa đổi như sau:
- Quy định cụ thể các thông tin được giữ bí mật: Thông tin về đời
sống riêng tư,
bí
mật cá nhân, bí mật gia đình.
- Bổ sung quyền được cung cấp các kỹ năng để ứng phó với bạo lực
gia đình và quyền được trợ giúp xã hội.
- Bổ sung quyền:
+ Được yêu cầu người bạo lực gia đình bồi thường thiệt hại về sức
khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản và khắc phục hậu quả;
+ Được thông tin về quyền, nghĩa vụ về quá trình giải quyết
mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình cũng như việc xử lý hành vi
bạo lực gia đình.
+ Khiếu nại, khởi kiện, tố cáo hành vi vi phạm phòng, chống bạo lực gia đình.
7. 6 địa chỉ tiếp nhận tin báo, tố giác hành vi
bạo lực gia đình
Hiện nay, Điều 18 quy định, khi phát hiện bạo lực gia đình,
cá nhân, tổ chức báo tin cho các cơ quan sau đây trừ trường hợp người phát hiện
là nhân viên y tế hoặc nhân viên tư vấn phát hiện bạo lực gia đình có dấu hiệu
tội phạm thì báo cho người đứng đầu để báo công an gần nhất:
- Cơ quan công an gần nhất
- Uỷ ban nhân dân (UBND) cấp xã.
- Người đứng đầu cộng đồng dân cư nơi xảy ra bạo lực.
Từ 01/7/2023, Điều 19 Luật mới quy định cụ thể các địa chỉ
tiếp nhận tin báo, tố giác về bạo lực gia đình gồm:
- UBND cấp xã nơi bạo lực gia đình xảy ra.
- Công an, Đồn Biên phòng gần nhất với nơi xảy ra bạo lực gia đình.
- Các trường học có người bị bạo lực gia đình học
tập.
- Trưởng thôn, Tổ trưởng Tổ dân phố, Trưởng Ban công
tác Mặt trận khu dân cư nơi xảy ra bạo lực gia đình.
- Người đứng đầu tổ chức chính trị, xã hội cấp xã nơi
xảy ra bạo lực gia đình.
- Tổng
đài phòng, chống bạo lực gia đình quốc gia. Tuy nhiên, hiện nay chưa có tổng
đài này.
Đồng thời, Luật mới cũng quy định việc báo tin, tố giác bạo
lực gia đình có thể thực hiện theo các hình thức: Gọi điện, nhắn tin, gửi đơn
hoặc thư hoặc trực tiếp.
8. Người bạo lực gia đình phải lao động
công ích
Từ
01/7/2023, theo điểm i khoản 1 Điều 22 Luật năm 2022, thực hiện công việc phục
vụ cộng đồng là một trong những biện pháp để ngăn chặn bạo lực gia đình, bảo
vệ, hỗ trợ người bị bạo lực.
Trong
khi đó, theo quy định hiện nay, Luật 2007 không đưa ra biện pháp này. Theo đó,
đây là việc có quy mô nhỏ, trực tiếp phục vụ lợi ích của cộng đồng gồm:
- Trồng, chăm
sóc cây xanh ở nơi công cộng;
- Sửa chữa, làm sạch đường làng, ngõ xóm, nhà văn hoá…
- Thực hiện các công việc cải thiện môi trường sống, cảnh
quan của cộng đồng.
Do đó, người có
hành vi bạo lực gia đình có thể phải tham gia phục vụ công ích theo danh mục
công việc do Chủ tịch UBND cấp xã công nhận và quyết định, tổ chức.
9. 2 trường hợp công
an xã yêu cầu người bạo lực gia đình đến trụ sở
làm việc
Nội dung này là nội dung mới được quy định tại Điều 24 Luật
năm 2022. Theo đó, sau khi được phân công giải quyết vụ việc bạo lực gia đình,
Trưởng Công an xã có quyền yêu cầu người bạo lực đến trụ sở để làm rõ thêm các
thông tin, giải quyết trong trường hợp:
- Trẻ em, phụ nữ mang thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng
tuổi, người cao tuổi, người khuyết tật, người không có khả năng tự chăm sóc bản
thân mình là người bị bạo lực gia đình.
- Có căn cứ cho rằng việc bạo lực gia đình có thể tiếp tục
gây nguy hiểm đến sức khoẻ, tính mạng của nạn nhân bị bạo lực gia đình.
Việc yêu cầu đến trụ sở làm việc phải được lập biên bản và
có người trong cộng đồng dân cư chứng kiến.
10. Trình tự giải quyết tin
báo, tố giác bạo lực gia đình
Việc xử lý tin báo, tố giác về bạo lực gia đình được quy
định cụ thể tại Điều 20 Luật Phòng chống bạo lực gia đình năm 2022:
Bước 1: Cá
nhân tổ chức báo tin, tố giác bạo lực gia đình tại một trong 06 địa chỉ tiếp
nhận tin báo, tố giác nêu trên.
Bước 2: Sau
khi nhận được tin báo, tố giác thì công an, Đồn Biên phòng nơi xảy ra hành vi
bạo lực thực hiện:
- Kịp thời ngăn chặn, xử lý trong phạm vi quyền hạn
của mình.
- Thông báo cho Chủ tịch UBND cấp xã nơi xảy ra
hành vi bạo lực
Bước 3: Chủ tịch UBND cấp xã xử lý/phân công xử lý
ngay khi tiếp nhận tin báo, tố giác về bạo lực gia đình hoặc báo cáo bạo lực
gia đình trừ trường hợp có dấu hiệu hình sự.
Riêng người bị bạo lực là trẻ em, phụ nữ mang thai/đang
nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người cao tuổi, người khuyết tật, người không có
khả năng tự chăm sóc hoặc có khả năng gây nguy hiểm đến sức khoẻ, tính mạng
người bị bạo lực thì Chủ tịch UBND cấp xã phân công công an xã xử lý ngay.
Trường Giang - VHTT.